Các doanh nghiệp ngành CNHT Việt Nam được Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ hết sức quan tâm, chỉ đạo với các chính sách lớn để thúc đẩy cộng đồng doanh nghiệp CNHT của Việt Nam có thể tham gia vào chuỗi sản xuất cung ứng, từ đó, phát triển kinh tế đất nước, góp phần vượt qua bẫy thu nhập trung bình.
Theo ông Nguyễn Hoàng – Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp ngành CNHT Hà Nội, Phó Chủ tịch Hiệp hội CNHT Việt Nam, thời gian qua, Chính phủ tập trung cho phát triển lĩnh vực CNHT, với một loạt các chương trình, chính sách ưu đãi và hỗ trợ cho cộng đồng doanh nghiệp ngành công nghiệp tham gia đầu tư vào chuỗi cung ứng toàn cầu, nhờ vậy năng lực của các doanh nghiệp ngành CNHT đã có những bước bứt phá.
Một số doanh nghiệp CNHT đã có sự đổi mới, nâng cao năng lực sản xuất.
Số lượng và chất lượng của các doanh nghiệp CNHT Việt Nam được cải thiện đáng kể, các sản phẩm CNHT phần nào đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Theo thống kê, số lượng doanh nghiệp hoạt động trong ngành CNHT hiện chiếm gần 4,5% tổng số doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, tạo việc làm cho hơn 600 nghìn lao động, chiếm 8% lao động toàn ngành chế biến, chế tạo. Doanh thu sản xuất, kinh doanh đạt hơn 900 nghìn tỷ đồng, đóng góp gần 11% tổng doanh thu toàn ngành chế biến, chế tạo. Tỷ lệ nội địa hóa của một số ngành công nghiệp tại Việt Nam đã được cải thiện.
Các bộ, ngành đã phối hợp đẩy mạnh triển khai nhiều chương trình, dự án hợp tác quốc tế trong lĩnh vực CNHT để mở rộng thị trường và nâng cao trình độ các doanh nghiệp CNHT Việt Nam, giúp các doanh nghiệp trong ngành cải thiện năng suất và chất lượng sản phẩm, góp phần đáp ứng nhu cầu cho sản xuất nội địa. Bên cạnh đó, doanh nghiệp CNHT trong nước ngày càng tích cực áp dụng các tiêu chuẩn, công cụ quản lý hiện đại vào sản xuất, chế tạo, từng bước nâng cao trình độ, sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ, độ chính xác cao, góp phần tăng giá trị gia tăng. Hiện nhiều doanh nghiệp sản xuất linh kiện Việt Nam đã có năng lực khá tốt tại một số lĩnh vực như: sản xuất khuôn mẫu các loại; linh kiện xe đạp, xe máy; linh kiện cơ khí tiêu chuẩn; dây cáp điện; linh kiện nhựa - cao su kỹ thuật, săm lốp các loại. Các sản phẩm này đã đáp ứng được nhu cầu trong nước và được xuất khẩu. Một số doanh nghiệp CNHT đã có sự đổi mới, nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tiếp cận kỹ thuật công nghệ mới đảm bảo các tiêu chuẩn của các đối tác…
Bên cạnh đó, các hoạt động thu hút đầu tư với sự tham gia của nhiều tập đoàn kinh tế lớn và công ty đa quốc gia hàng đầu tại Việt Nam, các doanh nghiệp trong nước cũng đã có bước phát triển, vươn lên mạnh mẽ. Trong nước đã hình thành và phát triển được các tập đoàn kinh tế lớn hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp cơ bản, vật liệu, cơ khí chế tạo... như: Viettel, Vingroup, Trường Hải, Thành Công, Hòa Phát..., tạo nền tảng cho CNHT, giúp Việt Nam từng bước tham gia sâu hơn vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Bên cạnh việc gia tăng số lượng nhà cung ứng, nhiều sản phẩm “made in Việt Nam” đã ra đời. Từ điện thoại cao cấp “made in Việt Nam” thương hiệu Bphone đến ô tô VinFast thương hiệu Việt xuất hiện đánh dấu vị thế mới của ngành công nghiệp ô tô đang vươn lên tự chủ trong đầu tư, sản xuất, làm chủ công nghệ và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
CNHT vẫn luôn được xác định là lĩnh vực quan trọng, không chỉ tạo động lực thúc đẩy ngành công nghiệp trong nước phát triển, mà còn thúc đẩy thu hút đầu tư nước ngoài và nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu. Chính vì vậy, để tiếp tục tạo động lực thúc đẩy lĩnh vực CNHT trong nước phát triển, bên cạnh sự nỗ lực nâng cao năng lực sản xuất của mỗi doanh nghiệp thì hệ thống cơ chế chính sách về CNHT cần được hoàn thiện và triển khai đồng bộ, hiệu quả hơn nữa.